Navigation Menu

Asset Publisher

angle-left Một số điểm mới của Nghị định 59/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2016/NĐ-CP

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật, đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của bộ, ngành, địa phương trong xây dựng, ban hành VBQPPL. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2024/NĐ-CP ngày 25/5/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 154/2020/BĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ.

 

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2024, với một số điểm mới sau đây:

(i) Nội dung về xây dựng chính sách và đánh giá tác động của chính sách

Sửa đổi quy định giải thích các từ ngữ “chính sách”, “đánh giá tác động của chính sách” tại Điều 2. Theo đó, Chính sách được định nghĩa là “định hướng, giải pháp của Nhà nước để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, giải quyết các vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định”; “đánh giá tác động của Chính sách là việc phân tích, dự báo tác động của chính sách nhằm lựa chọn giải pháp tối ưu thực hiện chính sách”.

Sửa đổi, bổ sung Điều 6 “đánh giá tác động của chính sách” để quy định cụ thể, rõ ràng, hợp lý hơn về yêu cầu đánh giá tác động của chính sách đối với hệ thống pháp luật, tác động của thủ tục hành chính; ghép khoản 1 (tác động về kinh tế) và khoản 2 (tác động về xã hội) thành tác động về kinh tế - xã hội, giúp đơn giản yêu cầu đánh giá tác động vì thực tế cho thấy tác động về kinh tế và xã hội thường gắn kết chặt chẽ và khó để đánh giá độc lập.

Sửa đổi, bổ sung Điều 7 nhằm đơn giản hóa phương pháp đánh giá tác động của chính sách, ưu tiên áp dụng phương pháp định lượng để đánh giá tác động của chính sách, đồng thời bỏ yêu cầu cơ quan lập đề nghị phải nêu rõ lý do khi không thể áp dụng phương pháp định lượng.

Bãi bỏ Điều 31 (Đánh giá tác động chính sách trong dự thảo VBQPPL) vì một số quy định tại Điều này không khả thi, hoặc đã được quy định trong Luật Ban hành VBQPPL.

Thay thế Mẫu Báo cáo đánh giá tác động của chính sách, Mẫu Tờ trình đề nghị xây dựng VBQPPL theo hướng dễ hiểu, dễ áp dụng, ngắn gọn hơn; bổ sung Mẫu Báo cáo rà soát VBQPPL có liên quan đến dự án, dự thảo, Mẫu Báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới Mẫu Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý.

(ii) Về lấy ý kiến đề nghị, dự án, dự thảo VBQPPL

Sửa đổi, bổ sung quy định lấy ý kiến đề nghị xây dựng và dự án, dự thảo VBQPPL (Điều 10 và khoản 3 Điều 25) theo hướng quy định hợp lý hơn các đối tượng gửi lấy ý kiến đối với đề nghị xây dựng nghị quyết của HĐND cấp tỉnh và trao quyền chủ động cho cơ quan lập đề nghị trong việc xác định cơ quan, tổ chức cần lấy ý kiến đảm bảo huy động trí tuệ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

(iii) Về ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn

Sửa đổi, bổ sung Điều 37 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP, cụ thể bổ sung khoản 3a vào sau khoản 3 Điều 37 như sau “Đề nghị xây dựng, ban hành văn bản QPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều này được thực hiện trước hoặc trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật”.

Sửa đổi bổ sung khoản 4 Điều 37 theo hướng quy định cụ thể văn bản dề nghị xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn cần có những nội dung: Sự cần thiết ban hành; tên văn bản; đối tượng phạm vi điều chỉnh; nội dung chính của văn bản; Căn cứ áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn và phải nêu rõ trường hợp được áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn.

(iv) Quy định được sửa đổi, bổ sung để quy định rõ ràng hơn, giúp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Ban hành VBQPPL

- Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 38 để quy định rõ hơn trách nhiệm công bố danh mục nghị quyết HĐND quy định chi tiết hết hiệu lực: Thường trực HĐND cùng cấp thực hiện việc công bố danh mục nghị quyết hết hiệu lực do Ủy ban nhân dân cùng cấp lập và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất.

- Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 13, khoản 2 Điều 43, khoản 2 Điều 44, khoản 3 Điều 48, khoản 3 và khoản 7 Điều 49, Điều 50 và Điều 51 để quy định rõ nguyên tắc hoạt động của Hội đồng tư vấn thẩm định, Hội đồng thẩm định; sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 113 để quy định rõ hơn thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc giúp Chính phủ kiểm tra văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.

Khoản 1 Điều 42 được sửa đổi và quy định rõ “tài liệu trong hồ sơ dự án, dự thảo gửi kèm văn bản đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định gồm: Tờ trình; dự thảo văn bản được đóng dấu giáp lai; các tài liệu khác được đóng dấu treo của bộ, cơ quan ngang Bộ”.

Bổ sung khoản 1a vào sau khoản 1 Điều 184 về truyền thông nội dung cơ bản của chính sách trongđề nghị xây dựng dự án dự thảo, cụ thể “Tổ chức truyền thông nội dung cơ bản của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản QPPL và dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức khác về các vấn đề phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm, có nhiều ý kiến khác khác nhau và tác động trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp”.

Bổ sung khoản 3 vào Điều 188 quy định cách thức xử lý thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, trong đó hướng dẫn hình thức văn bản và cách thức xử lý trong trường hợp cần phải bãi bỏ, thay thế.

                                    Thu Hằng-VP.